Tiểu sử của Ngài Nguyễn Phúc Khoát 阮福濶 (1714 - 1765) - Vũ Vương 武王 (1738 - 1765)

Ngài Nguyễn Phúc Khoát 阮福濶 (1714 - 1765) - Vũ Vương 武王 (1738 - 1765)

Đức Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Đế

23 Cha Ngài Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) - Ninh Vương 寧王 (1725 - 1738)

22 Ông nội Ngài Nguyễn Phúc Chu 阮福淍 (1675-1725) - Chúa Minh

21 Ông cố Ngài Nguyễn Phúc Thái 阮福溙 (1649 - 1691) - Chúa Nghĩa

20 Ông sơ Ngài Nguyễn Phúc Tần 阮福瀕 (1620 - 1687) - Chúa Hiền

Tổ Tiên

19 Ngài Nguyễn Phúc Lan 阮福瀾 (1601 - 1648) - Chúa Thượng 上王 (1635 - 1648)

18 Ngài Nguyễn Phúc Nguyên 阮福源 (1563 - 1635) - Chúa Sãi (1613 - 1635)

17 Ngài Nguyễn Hoàng 阮 潢 (1525 - 1613) - Chúa Tiên (1558 - 1613)

16 Ngài Nguyễn Kim 阮 淦 (1468 - 1545) - Triệu Tổ

15 Ngài Nguyễn Văn Lựu 阮 文 溜 (澑) - Trừng Quốc Công

14 Ngài Nguyễn Như Trác 阮 如 琢 - Phó Quốc Công

13 Ngài Nguyễn Công Duẩn 阮 公 笋 - Thái Bảo Hoằng Quốc Công

12 Ngài Nguyễn Sừ 阮 儲 - Chiêu Quang Hầu

11 Ngài Nguyễn Chiêm 阮 佔 - Quản Nội

10 Ngài Nguyễn Biện 阮 忭 - Phụ Đạo Huệ Quốc Công

9 Ngài Nguyễn Minh Du 阮 明 俞 (1330 - 1390) - Du Cần Công

8 Ngài Nguyễn Công Luật 阮 公 律 (????-1388) - Hữu Hiểu Điểm

7 Ngài Nguyễn Nạp Hoa 阮 納 和 (?_1377) - Bình Man Đại Tướng Quân

6 Ngài Nguyễn Thế Tứ 阮 世 賜 - Đô Hiệu Kiểm

5 Ngài Nguyễn Nộn 阮 嫩 (?_1229) - Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương

4 Ngài Nguyễn Phụng 阮 奉 (?_1150) - Tả Đô Đốc

3 Ngài Nguyễn Viễn 阮 遠 - Tả Quốc Công

2 Ngài Nguyễn Đê 阮 低 - Đức Đô Hiệu Kiểm

1 Ngài Nguyễn Bặc (阮 匐) (924-979) - Đức Định Quốc Công

 

Ngày tháng năm sinh / năm mất :

26 tháng 9 năm 1714 / 7 tháng 7 năm 1765

Địa chỉ sinh sống :

Lăng Trường Thái, La Khê, Hương Trà, Thừa Thiên

Thân mẫu / Thân phụ :

Không rõ / Ngài Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) - Ninh Vương 寧王 (1725 - 1738)

 

Phu nhân:

- Trương Thị Dung 張氏容 - Hiếu Vũ Hoàng hậu (孝武皇后)

- Trần Thị Xạ - Chiêu nghi (昭儀)

- Nguyễn Phúc Ngọc Cầu - Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư (慧淨聖母元師)

- Trương Thị Hoàng - Tả cung tần (左宮嬪)

- Trương Thị Bích - Tả cung tần (左宮嬪)

- Trương Thị Cơ - Tả cung tần (左宮嬪)

- Tống Thị - Tả cung tần (左宮嬪)

- Tống Thị Quyên - Hữu cung tần (右宮嬪)

- Vũ Thị Huyên - Cung tần (左宮嬪)

- Nguyễn Thị Khoa

- Đặng Thị Trúc

- Trần Thị Thanh

 

NGÀI húy NGUYỄN PHÚC KHOÁT 阮福濶 (1714 - 1765)
Vũ Vương 武王 (1738 - 1765)
Hệ IX

Hệ Chín

Hệ chín là Hệ của Đức Thế Tôn-Hiếu-Võ Hoàng-Đế. Ngài sanh năm 1714, mất năm 1765. Ngài có 18 Hoàng- tử: 1.– Hoàng tử Chương, 2.– Đức Hưng-Tổ-Hiếu- Khương Hoàng-Đế, 3.– Hoàng-tử Mão, 4. — Thành Quận- Công, 5.— Hoàng-tử Dục, 6. – Hoàng tử Điệc. 7. Hoàng- tử Kỉnh, 8.- Hoàng-tử Bản. 9. – Tuyên-Vương, 10.-- Hoàng-tử Yến, 11. – Hoàng tử Tuấn, 12. - Hoàng lử khoản, 13. – Hoàng tử Đản, 14. - Hoàng-tử Quyền, 15. Hoàng tử Diệu, 16.– Đức Duệ-Tôn Hiếu-Định Hoàng Đế, 17. – Hoàng tử Xuân, 18.– Phước long công, và các bà Chúa : Ngọc Huyên. Ngọc Nguyện, Ngọc-Thành, Ngọc-Ái, Ngọc-Nguyệt, Ngọc Cư, Ngọc-Thọ, Ngọc Xuyến, Ngọc Diệu, và Ngọc-Cơ.

Lăng của Đức-Thế-Tôn-Hiếu-Vỏ Hoàng Đế tên gọi Trường-Thái táng ở làng La-Khê, huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-Thiên ; lăng của Đức Bà tên gọi Vĩnh Thái táng ở làng Dương-xuân, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-Thiên, Đức Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng Đế và Đức-Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Tả tử án.

Hệ chín có 7 phòng, nhân số nam được 350 người.

Nhà thờ ngài Hoàng lục tử và Hoàng Thập-thất-tử đều tọa-lạc tại làng Dương-xuân, tổng Cư-chánh, huyện Hương-thủy; ngài Hoàng Tam tử nhà thờ tại làng Long-hồ, tổng An-ninh, huyện Hương-trà, ngài Hoàng Tứ tử nhà thờ tại làng Phổ trung, huyện Phú-vang, ngài Hoàng Thất tử nhà thờ tại làng Xuân-lai, tổng An-nông, huyện Phú-lộc, ngài Hoàng Thập tử nhà thờ tại làng Dương-phẩm, tổng An- cựu, huyện Hương-thủy, ngài Hoàng Thập-bát tử nhà thờ ở làng Công-lương, tổng An-cựu, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa-Thiên.

Đến Hệ Chín thì vừa hết các hệ Tôn-Thất.

(Trích từ Hoàng tộc lược biên XB 1943)


Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế húy là NGUYỄN PHÚC KHOÁT còn là Hiểu, con trưởng của đức Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ và Hoàng Hậu Trương Thị Thư. Ngài sinh ngày 18 tháng 8 năm Giáp ngọ (26–91714).

Ban đầu ngài được phong làm Chưởng dinh dinh Tiền Thủy, tước Hiểu Chính Hầu, làm phủ đệ ở Cơ tiền dục (làng Dương Xuân).

Tháng 4 năm Mậu ngọ (1738), đức Túc Tông băng, quần thần vâng di mệnh, tôn ngài làm Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Hiểu Quận Công" ngài lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân, lúc này ngài 25 tuổi.

Sau khi lên ngôi, ngài cho khởi công xây phủ mới, ở bên tả phủ cũ. Năm Kỷ mùi (739), hoàn tất cuộc dời đô, triều thần tôn ngài là "Thái Phú Quốc Công". Công cuộc kiến thiết mới đã làm cho đô thành Phú Xuân trở nên rộng rãi và hoa lệ. Khuôn viên phủ là ba lớp thành hình vuông vây bọc, có bảy cửa ra vào. Một trăm năm mươi đại bác được đặt rải rác khắp thượng thành. Phố xá đông đúc, đường sá rộng rãi. Dưới sông ghe thuyền qua lại không ngót. Miền Nam thanh bình an lạc, đất nước phú cường mở ra một kỷ nguyên mới.

Vào tháng 4 năm Giáp tý (1744), quần thần dân biểu xin ngài lên ngôi vương. Ban đầu ngài từ chối nhưng Trương Phúc Loan lấy lời lẽ hơn thiệt, nhắc lại việc đức Hiển Tông (Quốc Chúa), cho đúc ấn truyền quốc và so sánh tình trạng rối ren ở miền Bắc thua kém cảnh thanh bình, hưng vượng ở miền Nam. Cuối cùng ngài chấp thuận. Ngày 12 tháng 4 năm đó, lễ đăng quang được tổ chức vô cùng trọng thể ở vương phủ và khắp cả đô thành. Súng thần công bắn nền trời, trên bộ, dưới sông giăng đèn kết hoa, cờ xí rực rỡ. Đạo ngự gồm kiệu vua, voi dân hầu, kỵ binh và đoàn quan lại tùy tùng diễn hành khắp đô thành cho dân chúng chiêm ngưỡng rồi xuống thuyền rồng đưa thẳng về điện Trường Lạc (xây tại làng Dương Xuân, nằm ở thượng lưu sông Hương). Lễ đại xá ban hành khắp nước, các cuộc vui chơi kéo dài một tháng.

Sau đó nhiều cải cách được thi hành; phủ đổi thành điện, những gì trình lên vua gọi là tâu, Thân quân gọi là Võ lâm quân, Văn chức đổi là Hàn lâm viện. Về hành chính thì chia làm 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công. Phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê nhưng đối với các thuộc quốc thì xưng là Thiên vương. Y phục từ quan đến dân cũng thay đổi (1).

Ngài ra lệnh dúc quốc tử, dựng tông miếu và truy tôn tước hiệu các bậc Tiên vương. Ngài phong cho thân tộc làm Quận công, các Hoàng tử vẫn xưng là công tử, con trưởng xưng là Thái công tử. Trong cung lúc bấy giờ hiếm sinh con trai và hay chết yểu, nhiều người nghĩ là bị ông bà bắt nên phải kiêng cữ, giấu giếm. Con trai sinh ra được gọi bằng mụ, cháu trai thì gọi bằng chị (xem như là con gái).

Bờ cõi thời bấy giờ đã mở mang rộng rãi, miền Nam có 12 dính :

1. Chính dinh (đổi thành Đô thành Phú Xuân), 2. Cựu dinh (Ái Tử), 3. Quảng Bình, 4. Lưu Đồn, 5. Bố Chính, 6. Quảng Nam, 7. Phú Yên, 8. Bình Khang, 9. Bình Thuận, 10. Trấn Biên, 11. Phiên Trấn, 12. Long Hồ.

Tình hình các dinh mới thành lập, dôi khi không yên ổn như cuộc nổi loạn của người Man ở Thuận Thành vào năm Bính dần (1746) hay cuộc nổi loạn của khách buôn người Hoa ở dinh Trấn Biên làm quan quân phải đi đánh dẹp.

(1) Theo Phủ biên tạp lục của Lê Qui Đôn thì Vũ Vương tuyền cho quan và dân theo các kiểu mũ áo trong cuốn Tam tài đồ hội làm mẫu. Các quan chức phẩm hàm lớn phải dùng thái đoạn, mũ giát vàng bạc. Con trai, con gái ăn mặc quần áo gần giống như người Trung Hoa.


9.1 THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế húy là NGUYỄN PHÚC KHOÁT còn là Hiểu, con trưởng của đức Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ và Hoàng Hậu Trương Thị Thư. Ngài sinh ngày 18 tháng 8 năm Giáp ngọ (26–91714).

Ban đầu ngài được phong làm Chưởng dinh dinh Tiền Thủy, tước Hiểu Chính Hầu, làm phủ đệ ở Cơ tiền dục (làng Dương Xuân).

Tháng 4 năm Mậu ngọ (1738), đức Túc Tông băng, quần thần vâng di mệnh, tôn ngài làm Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Hiểu Quận Công" ngài lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân, lúc này ngài 25 tuổi.

Sau khi lên ngôi, ngài cho khởi công xây phủ mới, ở bên tả phủ cũ. Năm Kỷ mùi (739), hoàn tất cuộc dời đô, triều thần tôn ngài là "Thái Phú Quốc Công". Công cuộc kiến thiết mới đã làm cho đô thành Phú Xuân trở nên rộng rãi và hoa lệ. Khuôn viên phủ là ba lớp thành hình vuông vây bọc, có bảy cửa ra vào. Một trăm năm mươi đại bác được đặt rải rác khắp thượng thành. Phố xá đông đúc, đường sá rộng rãi. Dưới sông ghe thuyền qua lại không ngót. Miền Nam thanh bình an lạc, đất nước phú cường mở ra một kỷ nguyên mới.

Vào tháng 4 năm Giáp tý (1744), quần thần dân biểu xin ngài lên ngôi vương. Ban đầu ngài từ chối nhưng Trương Phúc Loan lấy lời lẽ hơn thiệt, nhắc lại việc đức Hiển Tông (Quốc Chúa), cho đúc ấn truyền quốc và so sánh tình trạng rối ren ở miền Bắc thua kém cảnh thanh bình, hưng vượng ở miền Nam. Cuối cùng ngài chấp thuận. Ngày 12 tháng 4 năm đó, lễ đăng quang được tổ chức vô cùng trọng thể ở vương phủ và khắp cả đô thành. Súng thần công bắn nền trời, trên bộ, dưới sông giăng đèn kết hoa, cờ xí rực rỡ. Đạo ngự gồm kiệu vua, voi dân hầu, kỵ binh và đoàn quan lại tùy tùng diễn hành khắp đô thành cho dân chúng chiêm ngưỡng rồi xuống thuyền rồng đưa thẳng về điện Trường Lạc (xây tại làng Dương Xuân, nằm ở thượng lưu sông Hương). Lễ đại xá ban hành khắp nước, các cuộc vui chơi kéo dài một tháng.

Sau đó nhiều cải cách được thi hành; phủ đổi thành điện, những gì trình lên vua gọi là tâu, Thân quân gọi là Võ lâm quân, Văn chức đổi là Hàn lâm viện. Về hành chính thì chia làm 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công. Phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê nhưng đối với các thuộc quốc thì xưng là Thiên vương. Y phục từ quan đến dân cũng thay đổi (1).

Ngài ra lệnh đúc quốc tử, dựng tông miếu và truy tôn tước hiệu các bậc Tiên vương. Ngài phong cho thân tộc làm Quận công, các Hoàng tử vẫn xưng là công tử, con trưởng xưng là Thái công tử. Trong cung lúc bấy giờ hiếm sinh con trai và hay chết yểu, nhiều người nghĩ là bị ông bà bắt nên phải kiêng cữ, giấu giếm. Con trai sinh ra được gọi bằng mụ, cháu trai thì gọi bằng chị (xem như là con gái).

Bờ cõi thời bấy giờ đã mở mang rộng rãi, miền Nam có 12 dính :

1. Chính dinh (đổi thành Đô thành Phú Xuân), 2. Cựu dinh (Ái Tử), 3. Quảng Bình, 4. Lưu Đồn, 5. Bố Chính, 6. Quảng Nam, 7. Phú Yên, 8. Bình Khang, 9. Bình Thuận, 10. Trấn Biên, 11. Phiên Trấn, 12. Long Hồ.

Tình hình các dinh mới thành lập, đôi khi không yên ổn như cuộc nổi loạn của người Man ở Thuận Thành vào năm Bính dần (1746) hay cuộc nổi loạn của khách buôn người Hoa ở dinh Trấn Biên làm quan quân phải đi đánh dẹp.

(1) Theo Phủ biên tạp lục của Lê Qui Đôn thì Vũ Vương tuyền cho quan và dân theo các kiểu mũ áo trong cuốn Tam tài đồ hội làm mẫu. Các quan chức phẩm hàm lớn phải dùng thái đoạn, mũ giát vàng bạc. Con trai, con gái ăn mặc quần áo gần giống như người Trung Hoa.

Về đối ngoại, cuộc tranh giành ngôi vua đã dựa nước Chân Lạp vào cảnh nội chiến kéo dài từ năm Mậu ngọ (1738) đến năm Định sửu (1757). Theo lời yêu cầu của các vị vua Chân Lạp, ngài phải cho quan quân can thiệp để tình hình nước này được yên ổn. Để đền đáp công ơn, các vua Chân Lạp đã hiến nhiều vùng đất cho ngài : vua Nặc Nguyên dâng hai vùng Tâm Đôn (Tân An) và Xuy Lạp (Gò Công), vua Nặc Nhuận hiến hai vùng Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu), vua Nặc Tôn hiến các vùng Tâm Phong Long (gồm vùng đất Thất Sơn chạy dọc xuống Sa Đéc) và sau đó là các vùng Hương Úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt và Linh Quỳnh (Kiên Giang, Long Xuyên). Như vậy đến năm Đinh sửu (1757) ngài đã mở rộng lãnh thổ của miền Nam như hiện nay.

Năm Canh thìn (1760), Thế tử Hạo mất, ngài rất thương tiếc. Thấy Hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Côn khôn ngoan sáng suốt và quả quyết, ngài định lập làm Thế tử. Ngài giao Hoàng tử cho Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh và Thị giảng Nguyễn Cao Kỳ chăm lo dạy dỗ.

Năm Giáp thân (1764) Hoàng tử Lê Duy Mật kêu gọi ngài đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh để phò Lê nhưng ngài không muốn gây chiến tranh với họ Trịnh.

Trong những năm về sau, mãi sống trong cảnh thanh binh, xa hoa ngài đâm ra say mê tửu sắc, không thiết tha việc nước, xa rời nhiệm vụ của bậc đế vương. Thêm vào đó để dễ dàng trong việc tiếm quyền Trương Phúc Loan đã khuyến dụ ngài đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dân Quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh điêu tàn của triều đại sau này.

Ngày 20 tháng 5 năm Ất dậu (7-7-1765) ngài băng, ở ngôi 27 năm, thọ 52 tuổi.

Đức Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ tám trị vì ở miền Nam.

Ngài đã góp công to lớn trong cuộc Nam tiến của dân tộc Việt để đất nước chúng ta có một lãnh thổ rộng lớn như ngày nay.

Ngài thuộc đời thứ 9 của họ Nguyễn Phúc và khai sáng ra hệ 9, hiện nay gồm 7 phòng.

1. Phòng 3 tức là phòng Chưởng dinh Nguyễn Phúc Mão

2. Phòng 4 tức là phòng Thành Quận công Nguyễn Phúc Cường

3. Phòng 6 tức là phòng Thiếu phó Nguyễn Phúc Chất

4. Phòng 7 tức là phòng Chưởng dinh Quận công Nguyễn Phúc Kính

5. Phòng 10 tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc An

6. Phòng 17 tức là phòng Thiếu phó Quận công Nguyễn Phúc Xuân

7. Phòng 18 tức là phòng Phức Long Công Nguyễn Phúc Thăng

9.2.– LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚNG HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

Ngài mất, lăng táng tại làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời vua Gia Long, lăng được đặt tên là Trường Thái, ngài được thờ tại Thái Miếu, án thứ tư bên tả.

Thế tử lên ngôi, dâng thụy hiệu là: "Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Vương". Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: "Kiến Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Hoàng Đế". Miếu hiệu là Thế Tông.

9.3.– GIA ĐÌNH

93.1. Hậu và phi

9.3.1.1. TRƯỜNG THỊ DUNG - Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Hậu.

Bà húy là Trương Thị Dung, (còn có tên là Trì, là Hiện), chánh quán huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bà sinh vào tháng 3 năm Nhâm thìn (tháng 4 năm 1712). Bà là con của quan Chưởng cơ Trương Văn Sáng.

Ban đầu, bà vào hầu nơi tiềm để, được phong làm Hữu Cung tần. Bà tính tình cẩn thận, có phong thái của các hậu phi thời xưa.

Bà mất ngày 6 tháng 10 năm Bính thìn (9–11–1786) lúc 25 tuổi, được phong tặng là Tu Nghi Phu Nhân, sau truy tặng Ôn Thành Trương Thái Phi. Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn: "Ôn Thành Huy Ý Trang Tư Dục Thánh Hiếu Vũ Hoàng Hậu". Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Trà, Thừa Thiên), tên lăng là Vĩnh Thái. Bà được phối thờ với đức Thế Tông tại Thái Miếu, án thứ tư bên tả.

Bà sinh được 3 trai, 1 gái: Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Chương (được phong tước Thành Công), Hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Côn (Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế), Hoàng tử thứ ba Nguyễn Phúc Dục (được phong tước Ý Công) và Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dao.

9.3.1.2.  TRẦN THỊ XẠ - Chiêu Nghi Liệt Phu Nhân

Bà húy là Trần Thị Xạ, pháp danh Hải Pháp, người làng Trung Quán, (huyện Khang Lộc, tỉnh Quảng Bình). Bà sinh năm Bính thân (1716), ngày tháng sinh không rõ. Bà là con của quan Khám Lý Năng Tài Hầu (không rõ tên).

Bà vào hầu nơi tiềm đế lúc 20 tuổi. Nhờ dung hạnh, biết chìu chuộng nên hà được sủng ái. Khi đức Thế Tông lên ngôi bà được tấn phong làm Quí nhân. Bà là người hiền thục, thận trọng lời ăn tiếng nói, hành động có phép tắc. Những lúc rảnh rang bà thường đến chùa dâng hương lễ Phật. Lúc bị bệnh, bà cấm không cho tả hữu tấu trình cho đức Thế Tông biết.

Bà mất ngày 22 tháng 7 năm Canh ngọ (23–8–1750) lúc 35 tuổi. Đức Thế Tông rất thương tiếc, sắc tặng: "Chiêu Nghi Liệt Phu Nhân", thụy là Từ Mẫn. Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên), đức Thế Tông cho khắc bia dựng trước mộ (nay vẫn còn).

Bà sinh được 4 Hoàng tử là: Nguyễn Phúc Kính, Nguyễn Phúc Bản, Nguyễn Phúc Yến, Nguyễn Phúc Tuấn và 2 Hoàng nữ (không rõ tên).

9.3.1.3. NGUYỄN PHÚC NGỌC CẦU BÁ - Huệ Tỉnh Thánh Mẫu Nguyên Sư

Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Cầu. Bà sinh năm Giáp dần (1734), ngày tháng sinh không rõ. Bà là con của Thái bảo Dận Quận công Nguyễn Phúc Điển (con thứ 12 của đức Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu).

Lúc nhập cung, bà được đức Thế Tông rất sủng ái,

Năm Giáp ngọ (1774) khi đức Duệ Tông (con của bà) vào Gia Định, bà lập ngôi chùa Phước Thành ở An Cựu (Huế) để tu.

Bà mất ngày 2 tháng 6 năm Giáp tý (9–7–1804), hưởng thọ 71 tuổi, được truy tặng là Huệ Tinh (1) Thánh Mẫu Nguyễn Sư, đạo hiệu là Thiệu Long giáo chủ. Lăng táng trong khuôn viên chùa Phước Thành, theo kiểu hình tháp của nhà Phật.

(1) Còn đọc là Tuệ Tĩnh

Bà sinh được hai Hoàng tử là: Nguyễn Phúc Diệu (được phong là Thiếu bảo Quận công) và Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế).

9.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ

Đức Thế Tông có 18 Hoàng tử và 12 Hoàng nữ

Hoàng tử:

1- Nguyễn Phúc Chương; 2- Nguyễn Phúc Côn; 3- Nguyễn Phúc Mão; 4- Nguyễn Phúc Cường; 5- Nguyễn Phúc Dục; 6- Nguyễn Phúc Chất; 7- Nguyễn Phúc Kinh; 8- Nguyễn Phúc Ban; 9- Nguyễn Phúc Hạo; 10- Nguyễn Phúc An; 11- Nguyễn Phúc Tuấn; 12- Nguyễn Phúc Yến; 13- Nguyễn Phúc Đản; 14- Nguyễn Phúc Quyền; 15- Nguyễn Phúc Diệu; 16- Nguyễn Phúc Thuần; 17-  Nguyễn Phúc Xuân; 18- Nguyễn Phúc Thăng

Hoàng nữ

1- Nguyễn Phúc Ngọc Tuyên; 2- Nguyễn Phúc Ngọc Nguyện; 3- Nguyễn Phúc Ngọc Thành; 4- Nguyễn Phúc Ngọc Ái; 5- Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt; 6- Nguyễn Phúc Ngọc Quận; 7- Nguyễn Phúc Ngọc Thụ; 8- Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến; 9- Nguyễn Phúc Ngọc Dao; 10- Khuyết danh; 11- Nguyễn Phúc Ngọc Cơ; 12- Khuyết danh.

9.3.3. Anh chị em

9.3.3.2A. NGUYỄN PHÚC DU - Thái bảo Nghiễm Quận công.

Ông là con thứ hai của đức Túc Tông, còn có tên là Nghiễm, mẹ là Hoàng Hậu Trương Thị Thơ.

Ông mất ngày 13 tháng 5 năm Tân mùi (6–6–1751), được phong tước Thái Bảo Nghiễm Quận công. Lăng táng tại làng An Ninh Thượng (Hương Trà, Thừa Thiên), nhà thờ nguyên ở An Ninh Thượng, nay dời về Ngự Bình.

Ông có 3 người con trai là: Nguyễn Phúc Diệp, Nguyễn Phúc Liêu và Nguyễn Phúc Khánh.

9.3.3.3A. NGUYỄN PHÚC TƯỞNG - Tường Quang Hầu

Ông là con thứ ba của đức Túc Tông, mẹ là Hữu Cung tần họ Nguyễn. Ông sinh ngày 21 tháng 6 năm Mậu thân (28–7–1728). Ông làm quan chức Cai đội.

Ông mất ngày 23 tháng chạp năm Đinh sửu (1–1–1758) lúc 30 tuổi, được phong tặng chức Cai cơ, tước Tường Quang Hầu. Lăng táng tại làng Giạ Lê Thượng (Hương Thủy, Thừa Thiên), nhà thờ ở làng Dương Xuân Thượng (Hương Thủy, Thừa Thiên).

Ông có 1 người con trai là Nguyễn Phúc Huy.

9.3.3.1B. Khuyết danh. Trưởng nữ của đức Túc Tông.

9.3.3.2B. NGUYỄN PHÚC NGỌC THƯỜNG - 阮福玉赏

Bà là con gái thứ hai của đức Túc Tông, mẹ là Tả Cung tần họ Trương. Chồng là ông Nguyễn Phúc Mão (được đổi quốc tính, chức Cai đội).

Bà mất năm Canh tuất (1790). Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên).

9.3.3.3B. NGUYỄN PHÚC NGỌC SAN

Bà là con gái thứ ba của đức Túc Tông, bà sinh năm Đinh dậu (1717). Chồng là ông Tống Phúc Dinh (làm quan chức Chưởng định).

Bà mất năm Đinh hợi (1767), thọ 51 tuổi. Lăng táng tại lăng Nguyệt Biều (Hương Thủy, Thừa Thiên).

9.3.3.4B. NGUYỄN PHÚC NGỌC DUYÊN

Bà là con gái thứ tư của đức Túc Tông, còn có tên là Sang. Chồng là ông Nguyễn Cửu Pháp (làm quan chức Nội hữu Chưởng dính, tước Hoán Quận công).

Gặp biến cố năm Giáp ngọ (1774), bà cùng chồng theo đức Duệ Tông vào Quảng Nam. Sau ông Pháp bị bệnh, phải về lại Phú Xuân rồi mất ở đó. Bà theo đức Duệ Tông vào Gia Định. Khi Gia Định thất thủ, bà theo đức Thế Tổ (vua Gia Long) chạy qua Xiêm.

Bà mất năm nào không rõ. Năm Quí hợi (1803) hài cốt bà được đem về chôn tại làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên).

9.3.3.5B. NGUYỄN PHÚC NGỌC BIỆN 阮福玉環

Bà là con gái thứ năm của đức Túc Tông, mẹ là Hữu Cung tần họ Nguyễn. Chồng là ông Nguyễn Phúc Tín (làm quan chức Cai đội).

Bà mất năm nào không rõ. Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên).

9.3.3.6B. NGUYỄN PHÚC NGỌC UYỂN.

Bà là con gái thứ sáu của đức Túc Tông, hiệu là Mỹ Hòa Công chúa. Chồng là ông Nguyễn Cửu Chính (làm quan chức Cai cơ).

Bà mất năm nào không rõ. Lăng táng tại làng Công Lương (Hương Thủy, Thừa Thiên).


Anh Em:

1- Ngài Nguyễn Phúc Khoát 阮福濶 (1714 - 1765) - Vũ Vương 武王 (1738 - 1765) - Đức Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Đế

2- Nguyễn Phúc Du - Thiếu Bảo Hiếu Nghiễm Quận Công

3- Nguyễn Phúc Tường - Tường Quang Hầu

Chị Em:

1- Công chúa - Thất tường

2- Nguyễn Phúc Ngọc Thường - Công chúa

3- Nguyễn Phúc Ngọc San - Công chúa

4- Nguyễn Phúc Ngọc Duyên - Công chúa

5- Nguyễn Phúc Ngọc Biện - Công chúa

6- Nguyễn Phúc Ngọc Uyển - Mỹ Hòa Công Chúa