Ngài húy NGUYỄN PHÚC TẦN
(1620 - 1687)
Chúa Hiền 主賢 (1648 - 1687)
Hệ V TIỀN BÊN
Hệ Năm
Đức Thái-Tôn-Hiếu-Triết Hoàng-Đế khai sáng ra Hệ Năm.
Ngài sanh năm 1620, mất năm 1687, sanh hạ được sáu Hoàng tử: 1.- Phước Quốc-Công, 2.– Anh-Tôn-Hiếu- 2- Nghĩa Hoàng-Đế, 3. – Cương-Quận-Công, 4.– Quốc Oai- Công, 5.– Hoàng-tử Niên, 6.– Hoàng-tử-Nhiều và ba Hoàng nữ: Công Chúa Ngọc-Tào và hai bà thất tường.
Lăng Đức Thái Tôn-Hiếu-Triết Hoàng-Đế (Trường Hưng), ở làng Hải-Cát, huyện Hương-Trà, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh Hưng) ở làng An-Ninh, huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài lại còn một bà thứ hai nữa, láng tại lăng Quang-Hưng ở làng Định-Môn, huyện Hương-Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và hai bà đều thờ tại Thái-Miếu, Tả nhị án.
Hệ năm hiện có ba phòng nam 300 người. Ba nhà thờ: nhà thờ ngài Phước Quận-Công ở làng La-Ỷ, lồng Dương- Nô, nhà thờ ngài Cương Quận-Công ở làng Lại Thế, tổng Ngọc Anh. Hai nhà thờ này đều ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nhà thờ ngài Quốc Oai-Công ở làng Vân-Thê, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
(Trích từ Hoàng tộc lược biên XB 1943)
Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Tần con thứ hai của đức Thần Tông Nguyễn Phúc Lan và Hoàng Hậu họ Đoàn (không rõ tên). Ngài sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh thân (18–7–1620).
Lúc làm Thế tử, ngài được phong là Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ngài là một võ tướng có tài. Năm Giáp thân (1644) ngài đốc suất các chiến thuyền vây đánh ba chiếc tàu của người Hà Lan tại cửa Eo làm thuyền trưởng phải tự tử, hai chiếc bỏ chạy, một chiếc bị va vào đá ngầm chìm, đức Thần Tông mừng và khen rằng: "Trước kia Tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa".
Năm Mậu tý (1648) quân Trịnh vào xâm lấn, ngài được cử làm đại tướng thống suất đại binh cự dịch. Ngài sai Nguyễn Hữu Tấn đem hơn 100 thớt voi, ban đêm xông vào đánh úp dinh địch làm quân Trịnh sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Ngài đem đại binh đuổi địch đến sông Gianh mới trở về.
Năm Mậu tý (1648), đức Thần Tông mất, ngài nối ngôi, quần thần tôn ngài làm "Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Dũng Quận Công”. Lúc này ngài 29 tuổi, người ta thường gọi ngài là Hiền Vương (Chúa Hiển).
Ngài là người vũ dũng, am hiểu binh pháp, giỏi chiến trận. Khi lên kế nghiệp, ngài chăm lo xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi, không nghĩ đến chuyện vui chơi. Ngài cho nạp vào cung một kỹ nữ người Nghệ An tên Đào Thừa, nhan sắc xinh đẹp, ngài rất yêu mến. Một hôm dọc sách xưa thấy việc Ngô Vương yêu mến nâng Tây Thi, ngài tỉnh ngộ rồi mật sai Nguyễn Phúc Kiểu trừ bỏ Đào Thừa để khỏi di lụy về sau.
Năm Giáp ngọ (1654) Nguyễn Phúc Trung, chú của ngài, bị Tống thị quyến rũ, xúi giục âm mưu làm loạn để đoạt ngôi Chúa. Việc phát giác, ông Trung bị bắt. Ngài không nỡ giết cho giam vào ngục. Tống thị bị tử hình, gia tài bị tịch thu đem cấp phát cho quân, dân. Sổ ghi tên những người theo phe phản nghịch tìm thấy được, ngài cho đốt đi không xét tới.
Năm Ất mùi (1655), thuộc tướng của Trịnh Đào là Phạm Tất Đồng đem quân vượt sông Gianh xâm lấn Nam Bố Chính. Từ đó, ngài quyết định chuẩn bị công việc đánh phương Bắc. Ngài thường băn khoăn, mong tìm các bậc hiểu tài để ủy thác công việc biên cương. Một hôm mộng thấy thần nhân dưa cho bài thơ :
"Tiên kết nhân tâm thuận
Hậu thi đức hóa chiều
Chi diệp kham tồi lạc
Căn bản dã nạn điều
tạm dịch là:
"Trước hết lòng người thuận
Sau thi đức hóa hay
Cành lá tuy nơi rụng
Cội gốc thật khó lay"
Ngài cho rằng thơ có chữ thuận và chữ chiêu là ứng vào Thuận Nghĩa Hầu Nguyễn Hữu Tấn và Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật nên phàm việc binh đều bàn mưu với hai người ấy.
(Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản 1995)
4.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Lan, con thứ hai của đức Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai. Ngài sinh ngày 16 tháng 7 năm Tân sửu (13-8-1601).
Lúc đầu, ngài được phong chức Phó tướng Nhân Lộc Hầu. Năm Tân mùi (1631) , Hoàng trưởng tử Kỳ mất, ngài được lập Thế tử. Năm Ất hợi (1635), đức Hy Tông băng, vâng lời di chúc, các quan tôn ngài làm "Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh kiêm Tổng Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Nhân Quận Công". Lúc ấy ngài 35 tuổi. Thời bấy giờ gọi là Chúa Thượng.
Qua năm sau, ngài cho dời phủ từ làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên) qua làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Kim Long rộng rãi, cảnh trí xinh đẹp, phủ Chúa và nhà quan lại còn lan ra các làng chung quanh. Kim Long đã mang lại nhiều lợi ích cho nền thương mại trong thời ngài. Các thuyền buôn từ Hội An, Trung Hoa ghé Thuận An đi dọc theo sông Hương lên Huế. Nhờ đó mà phẩm vật của người Âu và Trung Hoa (tơ sống, thuốc Bắc, bút chỉ v.v...) đều được mang bán tại Huế. Khách phương xa ghé đến Kim Long không khỏi ngạc nhiên khí thấy cảnh tượng huy hoàng của phủ Chúa và các nhà quan lại. Mỗi khi ngài ngự đi đâu đều có hơn hai nghìn thị vệ theo hầu, tiền hô hậu ủng, cờ xi rợp trời, oai vệ khác thường.
Ngài là người khoan hòa, nhân ái nhưng một cuộc mưu phản xảy ra làm ngài vô cùng đau lòng. Nguyên Hoàng tử thứ ba, em của ngài, tên là Anh, lúc đức Hy Tông còn sống, trấn thủ ở Quảng Nam. Khi nghe tin cha mất, anh nối nghiệp, liền kéo quân ra Đà Nẵng, định tiến đánh cướp ngôi Chúa. Ngài cho mời Nguyễn Phúc Khê vào bàn, khóc nói rằng : "Chẳng lẽ vì quyền lợi riêng tư một cá nhân mà gây chinh chiến để khổ sinh linh, hay hơn là cháu nhường ngôi Chúa để tránh cảnh huynh đệ tương tàn." Ông khê không chịu, xin ngài đặt phép nước lân tình nhà rồi cùng Nguyễn Phúc Yên kéo quân vào đánh, bắt được Hoàng tử anh, lấy nghĩa "Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.
Hai chiến công oanh liệt trong thời ngài là việc đánh tan tàu của người Hà Lan và đại thắng quân Trịnh. Người Hà Lan mà dân chúng thường gọi là giặc Ô Lan, vốn tự phụ sức mạnh của hải quân. Năm Giáp thân (1644) ba chiếc tàu Hà Lan tiến vào cửa Eo, bi ghe chiến của ta đổ ra vây đánh dưới sự đều khiển của Thế tử Dũng Lễ Hầu (sau này là Chúa Hiền). Chiếc tàu lớn bị đạp gãy bánh lái, phá hủy cột buồm làm viên thuyền trưởng phải tự đốt mà chết. Hai chiếc tàu kia chạy trốn, một chiếc va vào đá, tan vỡ.
Ngài tuy nắm sự nghiệp lớn lao của ông cha, nhưng cũng vướng mắc lưới tình suýt lung lau cả cơ nghiệp. Nguyên Tống thị, vợ của anh trưởng ngài, tuy đã ba con, nhưng còn trẻ đẹp, ăn nói mặn mà và là người lẳng lơ. (Tống thị lả con của Chưởng Cơ Tống Phúc Thông, lúc Hoàng tử Kỳ mất, Tống Phúc Thông đem gia quyến ra Bắc, Tống thị vẫn ở lại miền Nam). Từ năm Kỷ mão (1659), ngài say mê Tống thị đến mù quáng, nhờ đó, thị thao túng, nhận hối lộ, bóc lột của dân khiến gia tài của thị được xem là nhất, nhì trong nước. Ngài định xây cung thất để sống với thị lúc tuổi già. Triều thần can gián không được. Sau nhờ quan Nội tán Viên Hiền Hầu họ Phạm, dùng lời lẽ đanh thép để can ngăn, ngài mới bỏ Tống thị, lấy tiền xây cất cung điện chu cập cho bần dân, chỉnh đốn binh bị, Tống thị mật sai người ra Bắc, dân thư cho Trịnh Tráng xin cất quân vào Nam, thị sẽ đem gia tài nuôi quân. Việc này gây một cuộc can qua trọng đại giữa Nam va Bắc vao năm Mậu tý (1648).
Do thư của Tống thị, Trịnh Tráng sai Đô đốc Lê Văn Hiển đem quân thủy bộ vào đánh. Ban đầu, quân Trịnh đánh thắng, chiếm được Lũy Thầy. Cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân Trịnh đánh mãi không tiến lên được. Sau đại binh ngài đến, lật ngược thế cơ, đánh quân Trịnh một trận tan tành, đuổi thẳng đến Linh Giang (1).
Khi chiến thắng trở về, qua phá Tam Giang, ngày 26 tháng 2 năm Mậu tý (19-3-1646) ngài mất. Ngài ở ngôi được 13 năm thọ 48 tuổi.
* * *
Đức Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ ba trị vì ở miền Nam.
Ngài là một vị Chúa khoan hòa, quân ái. Về mặt tình cảm tuy có điều sai trái nhưng cuối cùng đã biết nghe lời nói phải, đặt quyền lợi đất nước trên tình riêng tư. Nhờ vậy mà quân, dân một lòng, dù quân Trịnh muốn dòm ngó cũng không làm gì nổi.
Ngài thuộc đời thứ tư của họ Nguyễn Phúc và đứng đầu hệ IV. Vì các Hoàng tử của ngài không có con nên hệ IV không có phòng nào. (Thế tử nối ngôi Chúa đứng đầu hệ V).
4.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Lăng ngài táng tại xã An Bằng (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long đặ tên lăng là Trường Diên. Ngài được thờ ở an thứ nhất bên hữu trong Thái Miếu.
Thế tử nối ngôi tôn thụy: "Đại Nguyên Soái Thống Suất Thuận Hóa - Quảng Nam Đẳng Xứ Chưởng Quốc Chinh Uy Đoán Thần Vũ Nhân Chiêu Vương."
Năm Giáp tý (1744). Vũ Vương truy tôn: "Thần Tổ Thừa Cơ Toàn Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu Vương".
Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: " Thần Tông Thừa Cơ Toàn Thống Quân Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu Đế". Miếu hiệu là Thần Tông.
4.3 - GIA ĐÌNH
4.3.1. Hậu và phi
3.3.1.1 Đoàn Thị. Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Hậu.
Bà họ Đoàn, con gái thứ ba của Thạch Quận công Đoàn Công Nhạn và phu nhân họ Vũ. Bà người huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam.
Bà tính tình minh mẫn, lúc 16 tuổi, nhân đêm trăng đi hái dâu ở bãi sông, ngắm trăng mà hát, gặp lúc đức Thần Tông (còn là Thế tử, đi theo hầu đức Hy Tông vào tuần tra Quảng Nam) cũng thừa đêm trăng xuống thuyền đi câu cá, nghe hát rằng: "Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng, Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa." Thế tử lấy làm lạ, sai người tìm hỏi, biết là con gái họ Đoàn, bèn cho hầu nơi tiềm để.
Bà người mẫn tuệ, hiền thục nên được sủng ái. Bà sinh được 1 con trai, sau này là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế. Bà mất ngày 17 tháng 6 năm Tân sửu (12-7-1661). Lăng táng tại làng Chiêm Sơn, ở gò Cốc Hùng, tỉnh Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diện.
Đời vua Vũ Vương, bà được truy tôn : "Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ Phi", sau thêm hai chữ Mẫn Duệ.
Vua Gia Long truy tôn: "Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu". Văn sách lược ghi như sau: Kính nghĩ Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Đoan Huệ Phi, lễ nghi, kính trọng chồng, trinh thục, đúng khuôn phép, hợp đức lớn của quẻ khôn, mở đầu cho sự giáo hóa trong chốn cung đình, sớm kết điềm lành, tạo phúc lâu dài cho xã tắc thành tựu đời đời. Nay cậy nhờ linh thiêng mà tạo được cơ đồ bền vững. Kính dâng kim sách tôn hiệu là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu.
Bà được phối thờ với đức Thần Tông ở án thứ nhất bên hữu trong Thái Miếu.
4.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ.
Ngài có 3 Hoàng tử và 1 Hoàng nữ
Hoàng tử
1. Nguyễn Phúc Vũ
2. Nguyễn Phúc Tần
Hoàng nữ
3. Nguyễn Phúc Quỳnh
4.3.3 Anh chị em: Ngài có 10 anh em trai và 4 chị em gái
4.3.3.1A. Nguyễn Phúc Kỳ. Khánh Quận công.
Ông húy là Nguyễn Phúc Kỳ, con trưởng của đức Hy Tông và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai.
Ban đầu ông làm Chưởng cơ. Năm Giáp dần (1614) đời Hy Tông Hoàng Đế. Ông giữ chức Hữu phủ Chưởng phủ sự, trấn Quảng Nam. Ông mất ngày 24 tháng 6 năm Tân mùi (22-7-1631), được truy tặng là Thiếu bảo Khánh Quận công. Lúc tại thế ông thường thi hành ân đức, cấp dưỡng quân dân nên khi mất sĩ dân đều thương tiếc.
Lăng táng tại làng Thanh Quýt, tỉnh Quảng Nam, nhà thờ ở xã Phú Thượng (Phú Vang, Thừa Thiên).
Phu nhân là Bùi Thị Phượng, mất ngày 14 tháng 3 (không rõ năm).
Ông có 4 con trai: Nguyễn Phúc Nhuệ, Nguyễn Phúc Xuân, Nguyễn Phúc Tài, Nguyễn Phúc Trí đều làm quan đến chức Chưởng dinh.
4.3.3.4A. Nguyễn Phúc Trung.
Ông húy là Nguyễn Phúc Trung, con thứ tư của đức Hy Tông làm Chưởng dinh. Mưu phản bị giết và tước tôn tịch. Không có con.
4.3.3.5A. Nguyễn Phúc An.
Ông húy là Nguyễn Phúc An, con thứ năm của đức Hy Tông cùng mẹ là Hoàng trưởng tử Kỳ.
4.3.3.6A. Nguyễn Phúc Vĩnh. Đô đốc Hữu phủ Quận công.
Ông húy là Nguyễn Phúc Vĩnh, con thứ sáu của đức Hy Tông. Làm quan đến Đô đốc Hữu phủ Quận công.
Ông có 7 người con là: Nguyễn Phúc Việt, Nguyễn Phúc Khoa, Nguyễn Phúc Bình, Nguyễn Phúc Thiên, Nguyễn Phúc Hạ, Nguyễn Phúc Thạnh, Nguyễn Phúc Nhất.
4.3.3.7A. Nguyễn Phúc Lộc.
Ông húy là Nguyễn Phúc Lộc, con thứ bảy của đức Hy Tông. Không có con.
4.3.3.8A. Nguyễn Phúc Tứ. Phó tướng.
Ông húy là Nguyễn Phúc Tứ, con thứ tám của đức Hy Tông.
Ông làm quan đến chức Phó tướng ở Quảng Nam. Lúc Nguyễn Phúc Anh làm phản, ông không theo nên khỏi tội. Không có con.
4.3.3.9A. Nguyễn Phúc Thiệu.
Ông húy là Nguyễn Phúc Thiệu, con thứ chín của đức Hy Tông. Không có con.
4.3.3.10A. Nguyễn Phúc Vinh. Vinh Quận Công.
Ông húy là Nguyễn Phúc Vinh, con thứ mười của đức Hy Tông.
Ông làm quan đến chức Chưởng cơ. Mất ngày 16 tháng 12 Âm lịch, năm mất không rõ. Được truy tặng là Vinh Quận công. Lăng táng tại làng Phú Xuân (Hương Trà, Thừa Thiên). Nhà thờ trước ở huyện Phú Vang nay dời về làng Bàng Môn (Phú Lộc, Thừa Thiên).
Ông có 1 con trai: Nguyễn Phúc Gia.
4.3.3.11A. Nguyễn Phúc Đôn. Chưởng cơ.
Ông húy là Nguyễn Phúc Đôn, con thứ mười một của đức Hy Tông.
Ông làm quan đến chức Chưởng cơ.
Ông có một người con tên Nguyễn Phúc Tuân.
4.3.3.1B. Nguyễn Phúc Ngọc Liên.
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, trưởng nữ của đức Hy Tông và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai. Bà là chị của Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ.
Chồng là Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh, trấn thủ dinh Trấn Biên (Nguyên là họ Mạc con của Mạc Cảnh Huống, được mang quốc tính, sau đổi thành Nguyễn Hữu).
4.3.3.2B. Nguyễn Phúc Ngọc Vạn. Hoàng Hậu Chân Lạp
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, con gái thứ hai của đức Hy Tông. Cùng mẹ với Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ.
Năm Canh thân (1620) bà được đức Hy Tông gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Về sau nể tình bà, vua Chân Lạp đã cho người Việt lập một dinh điền tại Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay).
4.3.3.3B. Nguyễn Phúc Ngọc Khoa. Hoàng Hậu Chiêm Thành
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, con gái thứ ba của đức Hy Tông. Em cùng mẹ với Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ.
Năm Tân mùi (1631) bà được đức Hy Tông gả con cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo hai nước Việt-Chiêm được tốt đẹp.
4.3.3.4B. Nguyễn Phúc Ngọc Đỉnh
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Đỉnh, con thứ tư của đức Hy Tông.
Bà hạ giá lấy Phó tướng Nguyễn Cửu Kiều.
Bà mất vào năm Giáp tý (1624).
5.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Tần, con thứ hai của đức Thần Tông Nguyễn Phúc Lan và Hoàng Hậu họ Đoàn (không rõ tên). Ngài sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh thân (18-7-1620).
Lúc làm Thế tử, ngài được phong là Thái phó Dũng Lễ Hầu. Ngài là một võ tướng có tài. Năm Giáp thân (1644) ngài đốc suất các chiến thuyền vây đánh ba chiếc tàu của người Hà Lan tại cửa Eo làm thuyền trưởng phải tự tử, hai chiếc bỏ chạy, một chiếc bị va vào đá ngầm chìm, đức Thần Tông mừng và khen rằng: "Trước kia Tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa".
Năm Mậu tý (1648) quân Trịnh vào xâm lấn, ngài được cử làm đại tướng thống suất đại binh cự dịch. Ngài sai Nguyễn Hữu Tấn đêm hơn 100 thớt voi, ban đêm xông vào đánh úp dinh địch làm quân Trịnh sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Ngài đem binh đuổi địch đến sông Gianh mới trở về.
Năm Mậu tý (1648), đức Thần Tông mất, ngài nối ngôi, quần thần tôn ngài làm "Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Dũng Quận Công". Lúc này ngài 29 tuổi, người ta thường gọi ngài là Chúa Hiền Vương (Chúa Hiền).
Ngài là người vũ dũng, am hiểu binh pháp, giỏi chiến trận. Khi lên kế nghiệp, ngài chăm lo xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi, không nghĩ đến chuyện vui chơi. Ngài cho nạp vào cung một kỹ nữ người Nghệ An tên Đào Thừa, nhan sắc xinh đẹp, ngài rất yêu mến. Một hôm đọc sách xưa thấy việc Ngô Vương yêu mến nàng Tây Thi, ngài tỉnh ngộ rồi mật sai Nguyễn Phúc Kiều trừ bỏ Đào Thừa để khỏi di lụy về sau.
Năm Giáp ngọ (1654) Nguyễn Phúc Trung, chú của ngài, bị Tống thị quyến rũ, xúi giục âm mưu làm loạn để đoạt ngôi Chúa. Việc phát giác, ông Trung bị bắt. Ngài không nỡ giết cho giam vào ngục. Tống thị bị tử hình, gia tài bị tịch thu đem cấp phát cho quân, dân. Sổ ghi tên những người theo phe phản nghịch tìm thấy được, ngài cho đốt đi không xét tới.
Năm Ất mùi (1655), thuộc tướng của Trịnh Đào là Phạm Tất Đồng đem quân vượt sông Gianh xâm lấn Nam Bố Chính. Từ đó, ngài quyết định chuẩn bị công việc đánh phương Bắc. Ngài thường băn khoăn, mong tìm các bậc hiền tài để thác công việc biên cương. Một hôm mộng thấy thần nhân đưa cho bài thơ:
"Tiên kết nhân tâm thuận - Hậu thi đức hóa chiêu - Chi diệp kham tồi lạc - Căn bàn dã nan diêu"
tạm dịch là: "Trước hết lòng người thuận - Sau thi đức hóa hay - Cành lá tuy rơi rụng - Cội gốc thật khó lay."
Ngài cho rằng thơ có chữ thuận và chữ chiêu là ứng vào Thuận Nghĩa Hầu Nguyễn Hữu Tấn và Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật nên phàm việc binh đều bàn mưu với hai người ấy.
Năm Ất mùì (1655) ngài phong Nguyễn Hữu Tấn làm Tiết chế, Nguyễn Hữu Dật làm Đốc chiến vượt qua sông Linh Giang (sông Gianh) đánh đất Bắc Bố Chinh, chiếm được Hà Trung Chúa trịnh sai Trịnh Trượng làm Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An, đem quân chống giữ. Quân Trịnh bị thua trận Lạc Xuyên phải rút về An Tràng để mất bảy huyện phía Nam Nghệ An. Quân Trịnh nhiều lần vào đánh miền Nam, nhân có sự bất hòa giữa Nguyễn Hữu Tấn và Nguyễn Hữu Dật, quân Trịnh chiếm lại được 7 huyện đã mất.
Năm Tân sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh miền Nam. Quan Trấn thủ Nam Bố chính là Nguyễn Hữu Dật chia quân ra đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được lại phải rút về.
Năm Nhâm tý (1672) Trịnh Tạc lại đem 10 vạn quân và rước vua Gia Tông vào Bắc Bố Chính đề đánh họ Nguyễn. Ngài cử Hoàng từ thứ tư là Hiệp Đức Hầu Nguyễn Phúc Thuần làm Nguyên súy cầm quân chống giữ. Ngài thân chính đốc suất đại quân thủy bộ tiếp ứng. Thủy quân được lệnh đóng giữ tất cả các cửa biển.
Quân Trịnh đem toàn lực tiến đánh lũy Trấn Ninh rất hăng, đã hai ba phen sắp phá được lũy. May nhờ Nguyên súy Nguyễn Phúc Thuần và Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật cương quyết chống giữ. Hai phe đều bị thiệt hại lớn. Quân Trịnh đánh mãi không được phải lui về Bắc Bố Chính. Lúc này trời rét lại nghe tin Thủy quân Nguyên súy Trịnh Căn bị bệnh nặng, Trịnh Tác bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt đóng ở Hà Trung để giữ các yếu lộ, rồi rút quân về Thăng Long.
Sau trận này, hai bên thôi việc chiến tranh, lấy sông Linh Giang (tức là sông Gianh) làm ranh giới hai miền.
Về mặt phía nam, năm Quý tỵ (1653) vua Chiêm Thành là Bà Tấm xâm phạm tỉnh Phú Yên. Ngài sai Hùng Lộc và Minh Vũ lãnh 3 ngàn quân đi đánh. Quân ta đại thắng, đuổi quân Chiêm đến tận sông Phan Rang. Bà Tấm dâng lễ vật và thư xin hàng. Ngài y cho, lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Từ phía đông đến địa đầu Phú Yên chia làm hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Vua chiêm phải giữ lệ cống như cũ. Như vậy, đến năm này dân tộc Việt đã tiến nhanh về phía Nam từ Tuy Hòa đến Phan Rang dài hơn 170 km.
Từ năm Mậu tuất (1658) vua Chân Lạp đã nhận làm phiên thần của Chúa Nguyễn, hàng năm nạp cống. Năm Giáp dần (1674) có Nặc Ông Đài ở nước Chân Lạp đi cầu viện nước Tiêm La để đánh Nặc Ông Nộn. Nặc Ông Nộn chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang, ngài sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm đem binh sang đánh. Quân ta vây thành Nam Vang, Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy, con ông là Nặc Ông Thu ra hàng. Ngài cho Nặc Ông Thu (dòng trưởng) làm Chánh Quốc Vương, đóng đô ở Long Úc và Nặc Ông Nộn làm đệ nhị Quốc Vương đóng ờ Sài Côn, bắt hằng năm phải triều cống.
Năm Kỷ mùi (1679) có Tổng bình Dương Ngạn Địch và Tổng binh Trần Thượng Xuyên, người Trung Hoa, không chịu thần phục nhà Thanh, đem hơn ba ngàn người và 50 chiến thuyền vào Nam xin nhập cư. Ngài vỗ về an ủi và cho vào trấn đóng tại Đông Phố (tức Gia Định) ngài ban cho chức tước, cấp phương tiện cày cấy để mở mang đất đai. Dương Ngạn Địch vào khai khẩn vùng Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên vao khai khẩn vùng Biên Hòa. Chẳng bao lâu Đông Phố trở thành miền đất trù phú, thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán tấp nập.
Từ khi thôi chiến tranh với họ Trịnh, ngài lo sửa sang chính trị, định lại phép thi cử để chọn nhân tài, đào thêm kênh ngòi để thêm phương, quân đội được thao diễn luyện tập thường xuyên. Quan trọng nhất là kế hoạch khai hoang, lập ấp : sau chiến thắng năm Mậu tý (1648) và các chiến thắng về sau, ngài phân tán số tù binh và những người hưởng ứng theo vào Nam, cho các nơi cứ 50 người làm một ấp, cấp cho lương ăn nửa năm. Ngài lại ra lệnh cho các nhả giàu đem tiền cho dân khẩn hoang vay. Kết quả là từ Điện Bàn (Quảng Nam) đến Phú Yên làng mạc liền nhau, ruộng đất trù phú, dân cư ngày càng đông. Dưới thời ngài, dân miền Nam sống được một thời gian cảnh trí đẹp đẽ, ngài cho dựng chùa Hoa Vinh ở núi Túy Vân (nay gọi là chùa Túy Vân), đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng xinh đẹp ở đất thần kinh.
Ngày 19 tháng 3 năm Đinh mão (30-4-1687), ngài không được khỏe, cho triệu Hoàng tử thứ hai là Hoàng Ân Hầu Nguyễn Phúc Thái đến bảo rằng: "Ta bình sinh ra vào gian hiểm để giữ nhà, giữ nước. Con nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi. Các quan văn võ đều do ta cất dùng để mưu mọi việc, đừng để cho bọn tiểu nhân len vào". Ngài lại triệu các đại thần đến bảo rằng: "Ta với các khanh một chí hướng với nhau mà côn việc mưa đồ chưa trọn. Nay con ta tuổi còn nhỏ, mong nhờ các khanh giúp đỡ cho công nghiệp của tổ tông được rõ ràng. Đừng quên lời ấy."
Nói xong ngài băng. Ngài ở ngôi 39 năm, thọ 68 tuổi.
* * *
Đức Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ tư trị vì ở miền Nam.
Ngài là người trí dũng, cương nghị, am hiểu binh pháp, có các đức tính của một vị minh quân và biết chăm lo việc nước. Trong suốt thời gian tại vị ngài đã thực hiện nhiều công cuộc quan trọng;
1- Ngài là người đầu tiên đánh thắng các tàu chiến của người Tây phương
2- Chấm dứt được cuộc phân tranh Nam Bắc kéo dài suốt 45 năm.
3- Mở rộng bờ cõi ở phía Nam, lập ra hai phủ Thái Khang và Diên Ninh.
4- Mở đường cho các vị kế nghiệp tiến vào đất Chân Lạp.
5- Đào nhiều kênh ngòi để thêm phương tiện cho giao thông và thương mại.
6- Thực hiện kế hoạch khai hoang, lập ấp trên qui mô rộng lớn.
Nhờ vậy mà miền Nam ngày càng phú cường, nhân dân được ấm no, hạnh phúc.
Ngài thuộc đời thứ năm họ Nguyễn Phúc, khai sáng ra hệ V hiện nay có 3 phòng:
1- Phòng một tức là phòng Phúc Quốc Công.
2- Phòng hai tức là phòng Cương Quận Công.
3- Phòng tư tức là phòng Quốc Uy Công.
5.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, lăng táng tại Hải Cát (Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Hưng. Đến đời vua Gia Long, ngài được thờ tại Thái Miếu, ở án thứ hai, phía tả. Lăng Trường Hưng đã được con cháu hệ V trùng tu vào năm Giáp tuất (1994).
Thế tử lên ngôi dâng thụy hiệu là: "Đạì Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Công Cao Đức Hậu Dũng Triết Vương".
Đời chúa Vũ Vương, ngài được truy tôn: "Nghị Tổ Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết Vương".
Vua Gia Long truy tôn: "Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết Hoàng Đế". Miếu hiệu là Thái Tông.
5.3 - GIA ĐÌNH
5.3.1. Hậu và phi
5.3.1.1 Châu Thị Viên. Chiêu Thánh Hoàng Hậu
Bà húy là Châu Thị Viên, sinh năm Ất sửu (1625). Bà vào hầu đức Thái Tông trong thời kỳ tiểm để, được phong làn Chánh phu nhân.
Bà tính linh mẫn, lúc 16 tuổi, nhân đêm trăng đi hái dâu ở bãi sông, ngắm trăng mà hát, gặp lúc đức Thần Tông (còn là Thế tử, đi theo hầu đức Hy Tông vào tuần tra Quảng Nam) cũng thừa đêm trăng xuống thuyền đi câu các, nghe hát rằng: "Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng, Thiếp thương phận thiếp má hồn nắng mưa." Thế tử lấy làm lạ, sai người tìm hỏi, biết là con gái họ Đoàn, bèn cho hầu nơi tiềm để.
Bà mất ngày 21 tháng 11 năm Giáp tý (26-12-1684) thọ 60 tuổi, được phong tặng là Tán Quốc Chinh Phu Nhân, táng ở làng An Ninh (Hương Thủy, Thừa Thiên). Đời Vũ Vương bà được truy tôn : "Từ Mẫn Chiêu Thánh Trang Phi", sau thêm hai chữ Trang Liệt. Vua Gia Long truy tôn : "Từ Mẫn Chiêu Thánh Cung Tĩnh Trang Thận Hiếu Triết Hoàng Hậu". Tên lăng là Vĩnh Hưng. Bà được phối thờ với đức Thái Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên tả.
Bà sinh được 2 trai và 1 gái: Nguyễn Phúc Diễn (tước Phúc Quốc Công), Nguyễn Phúc Thuần (tức Quốc Uy Công), Nguyễn Phúc Ngọc Tào.
5.3.1.2 Tống Thị Đôi. Huệ Thánh Hoàng Hậu
Bà húy là Tống Thị Đôi, con ông Thíếu phó Quận công Tốn Phúc Khang, mẹ bà họ Phạm (không rõ tên) chỉ biết bà quê ở huyện Tống sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Bà tính hiền hậu, lúc mới vào cung với thứ bậc là Cơ, sau ngày càng được ân sủng được phong làm thứ phi.
Bà mất ngày 21 tháng 3 âm lịch, không rõ năm mất, táng tại làng Đình Môn (Hương Trà, Thừa Thiên). Đời Vũ Vương bà được truy tôn: "Từ Tiên Huệ Thánh Tĩnh Phi", sau thêm hai chữ Trinh Thuận. Vua Gia Long truy tôn: "Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Thuận Tĩnh Nhân Hiếu Triết Hoàng Hậu", đặt tên lăng là Quang Hưng. Bà được phối thờ với đức Thái Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên tả.
Bà sinh ra đức Anh Tông Nguyễn Phúc Thái và Cương Quận Công Nguyễn Phúc Trân.
5.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ
Đức Thái Tông có 6 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ
Hoàng tử
1. Nguyễn Phúc Diễn
2. Nguyễn Phúc Thái
3. Nguyễn Phúc Trân
4. Nguyễn Phúc Thuần
5. Nguyễn Phúc Niên
6. Nguyễn Phúc Nhiễu
Hoàng nữ
1. Nguyễn Phúc Ngọc Tảo
2. Khuyết danh
3. Khuyết danh
5.3.3 Anh chị em
Ngài có 2 anh em trai và 1 chị em gái
5.3.3.1A. Nguyễn Phúc Vũ
Ông húy là Nguyễn Phúc Vũ, con trưởng của đức Thần Tông, mất sớm. Không có con.
5.3.3.4A. Nguyễn Phúc Quỳnh
Ông húy là Nguyễn Phúc Quỳnh, con thứ ba của đức Thái Tông. Không có con.
5.3.3.1A. Khuyết danh
Bà là con gái của đức Thái Tông. Bà hạ giá lấy ông Chưởng cơ tên Minh.
Anh Em:
1- Nguyễn Phúc Vũ - mất sớm
2- Ngài Nguyễn Phúc Tần 阮福瀕 (1620 - 1687) - Chúa Hiền 主賢 (1648 - 1687) - Đức Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế
3- Nguyễn Phúc Quỳnh - mất sớm
Chị Em:
1- Nguyễn Phúc Ngọc Dung - Công chúa
|