Tiểu sử của Ngài Nguyễn Kim 阮 淦 (1468 - 1545)

Ngài Nguyễn Kim 阮 淦 (1468 - 1545)
Triệu Tổ (肇祖) 1533 - 1545

Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế 太 祖 嘉 裕 皇 帝

 

Ngày tháng năm sinh / năm mất :

1468 / 1545

Nơi an táng :

Lăng Trường Nguyên, núi Triệu Tường, Quí Hương, Quí Huyện, Thanh Hóa

Thân mẫu / Thân phụ :

Không rõ / Ngài Nguyễn Văn Lựu 阮 文 溜 (澑)

 

Phu nhân:

- Nguyễn Thị Mai (阮氏梅) - Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Tức Tĩnh Hoàng Hậu (慈信昭懿弘仁淑德靖皇后)

- Đỗ Thị Tín (杜氏信)

- Thứ phu nhân (Khuyết danh)

Ngài húy NGUYỄN KIM

(1468 - 1545) 

Hệ Nhứt

Đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế đã khai sáng ra Nguyễn Triều ta và lập thành Hệ Nhứt.

Ngài húy NGUYỄN-KIM, sanh năm 1468, mất năm 1545. Ngài sanh hạ được hai vị Hoàng-Tử: Tả Tưởng Lãng Quận Công Nguyễn-Uông, Đức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế Nguyễn-Hoàng và Công Chúa Ngọc Bửu.

Lăng của ngài lên gọi là Trường-Nguyên, táng ở núi Triệu Tường, thuộc làng Qui-Hương, huyện Qui Huyện, tỉnh Thanh Hóa. Lăng của Đức Bà cũng táng gần đó.

Đức Triệu-Tổ Tịnh Hoàng-Đế và bà Nguyên Phổi đều thờ tại Triệu-Miếu trong Kinh-Thành nội. Nhà thờ ngài Tả Tướng Lãng Quận Công lọa lạc gần Long-Thọ (làng Dương-Xuân) Huế.

Hiện nay, kể về đàn ông, Hệ Nhứt được 320 người.

(Trích từ Hoàng tộc lược biên XB 1943)


Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế húy là NGUYỄN CAM con đầu của Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lựu. Bà mẹ họ Mai, tên húy không rõ. Ngài sinh năm Mậu tý (1468), ngày tháng sinh không rõ.

Thời trai trẻ, ngài tài kiêm văn võ. Ban đầu ấm thụ làm quan coi lính. Đến đời vua Lê Chiêu Tông (1516 – 1524) ngải giữ chức Tả vệ Điện tiền Tướng quân, tước An Tình Hầu, trông coi tỉnh Thanh Hoa (2)

Năm Đinh hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (3), ngài đem thuộc hạ tránh sang nước Ai Lao mưu việc khôi phục, lúc đó ngài đã 59 tuổi. Vua Ai Lao là Sa Đẩu cắt cho ngài châu Sầm (4) để ở. Ngài chiêu tập những người trung dũng, gửi con thứ là Nguyễn Hoàng, mới hai tuổi, cho em vợ là Nguyễn Ư Kỷ nuôi dạy để mình tiện lo việc lớn.

Năm Kỷ sửu (1529), ngài đem quân về Thanh Hoa đánh nhà Mạc, thắng trận liên tiếp. Năm Canh dần (1530), quân ngài bị tổn thất. Ngài phải tạm lui về Ai Lao chỉnh đốn lại binh mă.

Năm Quý ty (1533) ngài cùng các tướng dò tìm được Lê Ninh (con của vua Lê Chiêu Tông), 18 tuổi, lập lên ngôi tức vua Lê Trang Tông. Từ đó, hào kiệt theo về càng đông. Ngài được vua Lê phong chức Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự.

Năm Quí mão (1543) vua Lê tiến quân từ thành Tây Đô (Thanh Hóa) ra Bắc, sai người mang chiếu thư sang Ai Lao gọi ngài về. Vua gia phong ngài làm Thái tể Độ tướng Tiết chế tướng sĩ chu dinh thủy bộ. Ngài tiến quân đến đâu thắng đến đấy.

Năm Ất tỵ (1545) ngài định tiến ra Đông Đô (Thăng Long) nhưng bị lụt phải trở về Thanh Hoa, đóng quân ở Yên Mô (Ninh Bình). Hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất dâng quả dưa có thuốc độc để hại ngài. Ngài mất ngày 20 tháng 5 năm Ất tỵ (286–1545), thọ 78 tuổi.

1.2.– LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

Được tin ngài mất, vua Lê vô cùng thương tiếc, truy tặng ngài tước Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung Hiếu. Linh cữu ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), táng tại núi Thiên Tôn. Khi táng, trời nổi mưa gió sấm chớp, ai cũng sợ hãi bỏ chạy. Lúc trời tạnh trở lại thì đá núi, cây cỏ tươi tốt, không biết huyệt táng nơi nào nữa.

Năm Giáp ngọ (1594) vua Lê Thế Tông truy tặng ngài : Chiêu Huân Phụ Triết Tĩnh Công. Đời Tiên Vương (Chúa Tiên) ngàii được truy tôn : "Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hựu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương".

Đời Vũ Vương, ngài được truy tôn : "Di Mưu Thủy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương".

Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn ngải : "Di Mưu Thủy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hữu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tỉnh Hoàng Đế". Miếu hiệu là Triệu Tổ.

Ghi chú: (1) Theo phát âm của Khang Hy tự điển, là phải đọc là Cam. Từ trước đến nay quan đọc là Kim, nay sửa lại cho đúng. (2) Thanh Hoa sau vì kiêng đổi là Thanh Ba, về sau đổi là Thanh Hóa.

(3) Năm Mậu ngọ (1522) Mạc Đăng Dung phố vua Chiêu Tông làm Đà Giang Vương, lập Hoàng đệ Xuân lên làm vua tức Lê Cung Hoàng. Năm Bính tuất (1527) Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng cướp ngôi.

(4) Tức là Sầm Nưa ngày nay.

(Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản 1995)


Theo NPT TP


1.1. - Thân thế và sự nghiệp

    Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế húy là Nguyễn Kim con đầu của Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lựu. Bà mẹ họ Mai, tên húy không rõ. Ngài sinh năm Mậu tý (1468), ngày tháng sinh không rõ.

    Thời trai trẻ, ngài tài kiêm văn võ. Ban đầu ấm thụ làm quan coi lính. Đến đời vua Lê Chiêu Tông (1516-1524) ngài giữ chức Tả vệ Điện tiền Tướng quân, tước An Tĩnh Hầu, trông coi tỉnh Thanh Hóa.

    Năm Đinh hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ngài đem thuộc hạ tránh sang nước Ai Lao mưu việc khôi phục, lúc đó ngài đã 59 tuổi. Vua Ai Lao là Sạ Đẩu cắt cho ngài châu Sầm để ở. Ngài chiêu tập những người trung dũng, gởi con thứ là Nguyễn Hoàng, mới hai tuổi, cho em vợ là Nguyễn Ư Kỷ nuôi dạy để mình tiện lo việc lớn.

    Năm Kỷ sửu (1529), ngài đem quân về Thanh Hóa đáng nhà Mạc, thắng trận liên tiếp.

    Năm Canh dần (1530), quân ngài bị tổn thất. Ngài phải tạm lui về Ai Lao chỉnh đốn lại binh mã.

    Năm Quý tỵ (1533) ngài cùng các tướng dò tìm được Lê Ninh (con của vua Lê Chiêu Tông), 18 tuổi, lập lên ngôi tức vua Lê Trang Tông. Từ đó, hào kiệt theo về càng đông. Ngài được vua Lê phong chức Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự.

    Năm Quí mão (1543) vua Lê tiến quân từ thành Tây Đô (Thanh Hóa) ra Bắc, sai người mang chiếu thư sang Ai Lao gọi ngài về. Vua gia phong ngài làm Thái tể Đô tướng Tiết chế tướng sĩ chư dinh thủy bộ. Ngài tiến quân đến đâu thắng đến đấy.

    Năm Ất tỵ (1545) ngài định tiến ra Đông Đô (Thăng Long) nhưng bị lụt phải trở về Thanh Hóa, đóng quân ở Yên Mô (Ninh Bình). Hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất dâng quả dưa có thuốc độc để hại ngài. Ngài mất ngày 20 tháng 5 năm Ất tỵ (28-6-1545), thọ 78 tuổi.

1.2. - Lăng, Miếu thờ và các tước hiệu được truy tôn

    Được tin ngài mất, vua Lê vô cùng thương tiếc, truy tặng ngài tước, Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung Hiếu.Linh cữu ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), táng tại núi Thiên Tôn. Khi táng, trới nổi mưa gió sấm chớp, ai cũng sợ hãi bỏ chạy. Lúc trời tạnh trở lại thì đá núi, cây cỏ tươi tốt, không biết huyệt táng nơi nào nữa.

    Năm Giáp ngọ (1594) vua Lê Thế Tông truy tặng ngài: Chiêu Huân Phụ Triết Tĩnh Công.

    Đời Tiên Vương (Chúa Tiên) ngài được truy tôn: "Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương".

    Đời Vũ Vương, ngài được truy tôn: "Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương".

    Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn ngài: "Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng Đế". Miếu hiệu là Triệu Tổ.

    Năm Quý hợi (1803) vua Gia Long cho dựng Nguyên Miếu gồm ba gian hai chái ở phía đông núi Thiên Tôn gọi là miếu Triệu Tường để thờ hai ông bà.

    Năm Giáp tý (1804) vua Gia Long cho dựng Triệu Miếu trong Hoàng thành để thờ ngài. Mỗi năm làm lễ kỵ vào ngày 20 tháng 5 âm lịch và 5 lễ hưởng: Xuân hưởng (mồng 8 tháng giêng Â.L.) Hạ hưởng (mồng 1 tháng 10 Â.L.), Thu hưởng (mồng 1 tháng 7 Â.L.), Đông hưởng (mồng 1 tháng 10 Â.L.), và Hợp hưởng (22 tháng 10 Â.L.).

    Năm Mậu thìn (1808) vua Gia Long đặt tên lăng ngài là Trường Nguyên. Vì lăng không có dấu tích nên xây một nền vuông dưới chân núi để làm chỗ bái yết.

    Năm Tân tỵ (1821) vua Minh Mệnh đổi tên núi Thiên Tôn là núi Triệu Tường. Năm Nhâm ngô (1822) vua Minh Mệnh cho sửa Triệu Miếu và dựng bia ở lăng Trường Nguyên để tỏ rõ công nghiệp của đức Triệu Tổ. Bài minh như sau:

"Đất lớn chúa thiêng, sinh ra Triểu Tổ,

Vun đắp cương thường, nêu rạng Thánh Võ

Nghĩa động quý thần, công truyền vũ trụ

Cõi trần rời bỏ, lăng ở Bái Trang

Non nước bao bọc, sầm uất tùng xanh

Khí thiêng nhóm họp, đời xương vinh

Mệnh trời đã giúp, con cháu tinh anh

Võ công dựng nước, bèn tìm gốc nguồn

Truy tôn, dựng nước, lăng gọi Trường Nguyên

Tân tỵ Bắc tuần, đến dây dựng lại

trông ngắm non sông, nhớ đến gốc cõi

Khắc chữ vào bia, lưu ức vạn tái."

    Đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế là khai quốc công thần của nhà Lê trung hưng. Tuy giữa chừng bị hại nhưng công trạng to lớn của ngài sử sách đều ghi rõ.

    Ngài là Thủy tổ của họ Nguyễn Phúc ở miền Nam. Ngài khai sáng ra hệ I trong Nguyễn Phúc Tộc.

1.3. - Gia Đình

1.3.1. Các vị phu nhân

Theo một số gia phả ngài có 3 phu nhân

1.3.1.1 Nguyễn Thị Mai - Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu

Bà húy là Nguyễn Thị Mai, con ông Nguyễn Minh Biện (quê ở Phạm Xá, tỉnh Hải Dương, làm quan triều Lê, chức Đạc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thư Vệ Sự). Bà là người thuần hậu, đức hạnh trọn vẹn toàn. Bà mất ngày 23 tháng giêng Âm lịch, năm mất không rõ. Bà táng tại núi Thiên Tôn với đức Triệu Tổ, nhưng không làm lăng riêng.

Năm Giáp tý (1748), Chúa Vũ Vương truy tôn Bà: "Từ Tín Chiêu Ý Đức Phi', về sau thêm hai chữ Hoằng Nhân.

Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn Bà: "Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Đúc Tĩnh Hoàng Hậu". Bà Được phối thờ với đức Triệu Tổ ở Triệu Miếu trong Hoàng thành, Tên lăng của Bà là Vĩnh Nguyên.

1.3.1.2 Đỗ Thị Tín - Thứ phu nhân

Bà húy là Đỗ Thị Tín. Bà sinh ra Thái phi Ngọc Bảo

1.3.1.2 (khuyết danh) - Thứ phu nhân

1.3.2. Con trai và con gái

Ngài có 3 người con: 2 trai và 1 gái                   

Con trai

1. Nguyễn Uông

2. Nguyễn Hoàng

Con gái

1. Nguyễn Thị Ngọc Bảo

1.3.3.1A. Nguyễn Tông Thái - Uy Xuân Hầu.

Ông húy là Nguyễn Tông Thái, em của đức Triệu Tổ.

Ông làm quan đời nhà Lê, chức Điện tiền Đô tổng binh sứ, tước Uy Xuân Hầu. Dưới triều Lê Trang Tông, ông được phong chức Đảng Khấu Tướng Quân coi ba tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên, chống nhau với nhà Mạc vài mươi năm. Sau bắt được Mạc Kính Dụng, ông được phong làm Thái Nguyên - Cao Bằng Phủ Quân Sự.

Bà vợ là Bế Thị Khương. Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh con cháu sợ họ Trịnh nên đổi ra họ Bế. Dưới triều vua Gia Long, chi họ này được ban công tính Nguyễn Hựu. Chi họ này ở Bắc Khê, tỉnh Cao Bằng.

1.3.3.1C. Nguyễn Ư Kỷ - Thái phó Uy Quốc Công

Ông húy là Nguyễn Ư Kỷ, em ruột của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu.

Ông quê quán ở Hải Dương, con của ông Nguyễn Minh Biện (làm quan triều Lê với chức Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thự Vệ Sự).

Ông làm quan triều Lê đến chức Thái phó Uy Quốc Công.

Năm Đinh hợi (1527) Mặc Đang Dung đoạt ngôi nhà Lê, Triệu Tổ gởi con thứ là Nguyễn Hoàng cho ông để lo việc nước. Ông hết lòng chăm sóc.

Khi Đức Triệu Tổ mất, Thái Tổ ra làm quan với triều Lê được phong làm Thái bảo Đoan Quốc Công. Trịnh Kiểm ghen muốn hại, ông khuyên Thái Tổ giả cuồng, cử chỉ tỏ ra thất thường để Trịnh Kiểm khỏi để ý. Về sau, Trịnh Kiểm quyết tâm mưu hại, Thái Tổ kinh hãi, bàn mưu với ông, ông nói: "Kiểm đã cố tâm mưu hại, cần phải tránh xa. Đất Thuận Hóa hiểm trở, vững chắc có thể giữ yên thân mình cháu nên nhờ chị Ngọc Bảo (chính phi của Trịnh Kiểm) nói với Kiểm xin trấn giữ đất này để mưu đồ việc lớn về sau". Thái Tổ nghe theo và nhờ người nói với chính phi, phi lựa lúc nói với Trịnh Kiểm. Kiểm cho rằng Thuận Hóa là vùng đất ác chướng, lại có tướng nhà Mạc đóng ở đấy, muốn mượn tay nhà Mạc hại Thái Tổ, bèn xin vua Le phong cho Thái Tổ giữ đất này.

Ông lấy tình thân thuộc bảo hộ cho Thái Tổ, mở mang nghiệp lớn. Ông cùng với Tống Phúc Trị, Mạc Cảnh Huống là những bậc khai quốc công thần giúp Thái Tổ lập nên vương nghiệp.

Khi mất, ông được thờ tại Nguyên Miếu ở Gia Miêu Ngoại Trang. Đến năm Giáp thìn (1844) vua Triệu Trị truy tặng là "Khai Quốc Công Thần Đặc Tiến Tráng Võ Tướng Quân Trung Quân Đô Thống Phủ Chưởng Phủ Sự Thái Sư", thụy là Trung Trinh, tước là Uy Quốc Công và cho thờ tại Hữu vu của Thái Miếu.

Người con trưởng của ông là Nguyễn Đình Dũng theo ông vào Nam làm quan đến chức Thái bảo Quận Công. 

Theo phả Họ Nguyễn Gia Miêu


Theo Phả Gia Miêu. Dịch từ Bản gốc của chi Nhất Nguyễn Đức Trung, làng Mậu Thịnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.

+ Đời thứ Tư: Chiêu Huân Tĩnh công huý Kim, nay là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế con cả Trừng Quốc công. Sinh 2 trai 1 gái. Con trai cả là Lãng Quận công, con trai thứ hai là Cẩn Nghĩa công. Con gái là Trịnh Minh Khang Thái Vương Thái phi. Cụ là người văn võ tài lược. Lúc đầu được làm quan Điển binh. Đến đời Lê Quang Thiệu (1516), cụ làm quan đến chức Điện tiền Tướng quân Hữu vệ Thanh Hóa, tước An Thanh hầu. Đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, chạy vào Thượng …. Thanh Hoa, cụ có hơn 5000 tráng sĩ, 30 thớt voi, ngày đêm tập luyện tập chống nhau với kẻ thù để khôi phục, kết với chúa Ai Lao là Sạ Đẩu viện trợ để phò triều Lê diệt Mạc. Hào kiệt bốn phương nghe tin đều theo về. Cụ cho người đi khắp nơi dò tìm con cháu nhà Lê. Mùa xuân năm Quý Tị, cụ đưa Hoàng tử nhà Lê từ Ai Lao về đến Sách Thúy... thì tôn lập vua Trang Tông, đổi niên hiệu là Nguyên Hòa năm thứ nhất (1533). Vậy là vua triều Lê lại tiếp tục và cụ được phong Đại tướng quân Hưng Quốc Công. Ra lệnh cho các tướng đánh giặc. Chia quân ra các ngả tiêu diệt quân nhà Mạc. Các hào kiệt tụ hợp hưởng ứng.

Mùa xuân năm Quý Mão, Mạc Kính Điển nhà Mạc đến xâm chiếm, cụ cho quân đánh dẹp, đại thắng. Cụ ổn định các châu huyện, chia các tướng sĩ trấn giữ các nơi. Tháng 3 tiến về Gia Viễn đánh bại tướng nhà Mạc. Chia quân chiếm đóng đồn, chiếm giữ, định đến tháng 9 đánh vào Đông Đô, quân nhà Mạc khiếp sợ. Nhưng gặp mùa thu trời mưa dầm nên việc không thành, bèn ra lệnh tạm rút về. Năm Giáp Thìn, vua Lê trở lại Tây Đô đánh nhà Mạc. Lúc bấy giờ cụ động viên chư quân còn ở Ai Lao (Lào). Vua Lê sai Trịnh Công Năng triệu Cụ về. Cụ sửa sang chỉnh đốn rồi lập tức lên đường về. Vua Lê vui lắm, gia phong cụ là Thái tể Tiết chế Chư dinh, sai chia các đạo tiến quân vỗ về ổn định các huyện. Năm Bính Ngọ (1546) đem quân về Sầm Hạ. Ngày 20 tháng 5 cụ mất, hưởng thọ 78 tuổi. Mộ táng tại núi Thiên Tôn. Vua Lê Trang Tông vô cùng đau buồn, tặng cụ là Chiêu Huân Tĩnh Công - Thái phi (cụ bà) họ Nguyễn, thụy là Từ Tín giỗ ngày 23 tháng Giêng.